DỊCH VỤ THUÊ NHÀ KHO HÀNG LẠNH

Lĩnh vực kho bãi ở Việt Nam có thể được chia thành hai phân khúc chính gồm nhà kho bảo quản hàng khô và kho lạnh. Hoạt động của hệ thống kho này khá đơn giản, chỉ nhằm mục đích bảo quản hàng hóa và tối ưu chi phí lưu kho. Một số công ty hiện tại mạnh về cho thuê và quản lý kho hàng như BS Logistics, Sotrans, Transimex, Gemadept, U&I Logistics, Vinafco Draco Seaborne, BK Logistics, ALS, ITL...

Dịch vụ nhà kho hàng lạnh

Nhu cầu về kho lạnh dự báo cũng sẽ tăng lên khi thương mại nông lâm thủy sản và ngành thực phẩm phát triển. Kho lạnh thương mại đầu tiên được xây dựng năm 1996 bởi Konoike Vinatrans, một liên doanh giữa Konoike Transport (Nhật Bản) với ba doanh nghiệp Việt Nam gồm Vinatrans, Vinalink và Vinafreight. Tới năm 1998, Swire Cold Storge (Úc) xây dựng một trong những kho lạnh hiện đại nhất thời bấy giờ. Năm 2007, Công ty Cổ phần Hùng Vương của Việt Nam xây dựng hai kho lạnh với tổng sức chứa là 40.000 tấn hàng nhằm đáp ứng nhu cầu tự thân của doanh nghiệp cũng như các doanh nghiệp thủy sản khác và các công ty bán lẻ trên thị trường. Thị trường Việt Nam đã trở nên hấp dẫn với những nhà cung cấp kho lạnh cả trong và ngoài nước.

Những nhà cung cấp lớn về kho lạnh thương mại chủ yếu tập trung ở khu vực phía Nam do nhu cầu lớn về lưu kho hàng thủy sản phục vụ xuất khẩu. Những nhà cung cấp này được phân loại thành 4 nhóm chính: nhóm các nhà công ty trong nước, nhóm các công ty ngoại, nhóm các công ty kho vận và nhóm khác Những doanh nghiệp dẫn đầu trong nhóm này gồm Hoàng Lai, Hùng Vương, SATRA và Phan Duy. Trong đó, hai công ty Hùng Vương và SATRA là những công ty đầu tiên triển khai kho lạnh nhằm đảm bảo nhu cầu của chính mình. Một số dự án đầu tư kho lạnh đang được triển khai, ví dụ dự án đầu tư lớn nhất là kho lạnh Mekong của Tập đoàn Gemadept và Tập đoàn thủy sản Minh Phú với sức chứa 50.000 tấn hàng được xây dựng tại Khu công nghiệp Sông Hậu, tỉnh Hậu Giang với tổng vốn đầu tư là 46,1 triệu USD.

Các doanh nghiệp nước ngoài cũng đang tận dụng tốt tiềm năng của thị trường kho lạnh Việt Nam nhờ đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp và trang thiết bị hiện đại. Một ví dụ tiêu biểu là SWIRE-một trong những nhà cung cấp kho lạnh nước ngoài đầu tiên thâm nhập vào thị trường Việt Nam tư năm 1998 với đội ngũ quản lý chuyên nghiệp cũng như trang thiết bị hiện đại tại thời điểm đó. Những nhà cung cấp dịch vụ kho
lạnh khác có thể kể đến như Lotte Sea (2009) và Preferred Freezer Services (2010).

Đến nay, các doanh nghiệp nước ngoài vẫn dẫn đầu thị trường về chất lượng nhờ hệ thống quản lý kho chuyên nghiệp và công nghệ vượt trội.
Dự báo nhu cầu sử dụng kho lạnh phục vụ bốn lĩnh vực chính gồm thủy sản, thịt, rau quả và bán lẻ sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Trong đó, xuất khẩu thủy sản và hàng bán lẻ được kỳ vọng trở thành động lực chính cho việc tăng nhu cầu kho lạnh ở Việt Nam. Việt Nam được kỳ vọng sẽ có khoảng 1.200 - 1.300 siêu thị, 180 trung tâm mua sắm và 157 cửa hàng bách hóa vào năm 2020. Các kênh phân phối trong đó có
kho lạnh cũng sẽ hướng đến sự phát triển mạnh mẽ về số lượng và sức chứa để đáp ứng nhu cầu.

Mô hình trung tâm phân phối

Là bước phát triển tiếp theo của kho hàng truyền thống. Việc ra đời trung tâm phân phối xuất phát tư nhu cầu quản lý chuỗi cung ứng sản xuất với quy mô lớn theo dõi và truy xuất thông tin hàng hóa nhanh chóng chính xác. Các công ty ban đầu sử dụng dịch vụ này là công ty sản xuất hàng tiêu dùng nhanh bán lẻ như: Unilever, P&G, Vinamilk, Masan...

Tổng diện tích hệ thống các trung tâm phân phối tại Việt Nam hiện khoảng 300 ha, phân bố rải rác tư Bắc vào Nam. Một số trung tâm phân phối lớn hiện đang hoạt động như: Hệ thống trung tâm phân phối tại Khu công nghiệp Sóng Thần và phía Bắc quy mô 100.000 m2 của Gemadept, trung tâm phân phối của Transimex và các trung tâm phân phối khác của các công ty nước ngoài như DHL, Damco...

Quy mô một số trung tâm phân phối lớn của Việt Nam

Theo báo cáo của công ty Amstrong & Associates về thị trường cung cấp dịch vụ logistics tổng hợp 3PL tại Việt Nam, doanh thu 3PL/Doanh thu ngành Logistics của Việt Nam khá nhỏ so với các quốc gia khác trên thế giới (khoảng 0,8%/GDP) mặc dù chi phí logistics chiếm hơn 20% của GDP. Vì vậy đòi hỏi phải có sự cân đối để hướng tới giảm tối đa chi phí logistics nhưng ngành sẽ mang lại nhiều doanh thu trong tương lai.

Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ logistics ở Việt Nam gồm các doanh nghiệp 1PL (bản thân doanh nghiệp tự chủ động cung cấp dịch vụ không thuê ngoài dịch vụ vận chuyển lưu kho) hoặc 2PL (cung cấp các dịch vụ đơn lẻ chưa có tính tích hợp). Số lượng thuê ngoài dịch vụ logistics trọn gói 3PL còn chưa nhiều và giá trị thu về tư các hợp đồng 3PL còn rất hạn chế so với tiềm năng. Trong đó các công ty thuê ngoài dịch vụ logistics chủ yếu là ngành hàng tiêu dùng nhanh FMCG các ngành nghề khác như phương tiện thiết bị công nghệ cao thiết bị tự động và ngành dược cũng chỉ chiếm con số rất nhỏ.

Facebook Chat